Cách nhận biết xuất xứ của Ngọc Bích

MỘT SỐ CÁCH NHẬN BIẾT XUẤT XỨ CỦA NGỌC BÍCH NEPHRITE ĐƠN GIẢN

Trên thế giới có nhiều nguồn ngọc bích phong phú bao gồm: Mỹ, Canada, Nga, Ba Lan, Mexico, New Zealand, Zimbabwe, Ý, Hàn Quốc, Myanmar, Trung quốc,.... Trong đó, Myanmar (Miến Điện) nổi tiếng là nơi sản xuất ngọc jadeite chất lượng cao lớn nhất thế giới. Ngoài ra, các nguồn ngọc bích đáng chú ý khác bao gồm Trung Quốc (đặc biệt tại các vùng Tân Cương và Hà Nam), Guatemala và New Zealand, đây là những nơi chủ yếu tìm thấy ngọc bích nephrite.
Trung Quốc, Mexico và New Zealand là 3 quốc gia có văn hóa sùng bái ngọc nhất trên thế giới và mỗi quốc gia lại có lịch sử và truyền thống văn hóa riêng biệt. Ở Trung Quốc, ngọc bích đã được chế tác từ khoảng tám nghìn năm trước và vẫn tiếp tục được sản xuất và sử dụng cho đến ngày nay. Tại Mexico, văn hóa ngọc bích chủ yếu được tạo nên bởi tổ tiên người Maya, họ coi ngọc bích có ý nghĩa tôn giáo và gắn liền với sự sống, tái sinh. Văn hóa ngọc bích Trung Mỹ bắt đầu từ nền văn hóa Olmec và tiếp tục phát triển trong nền văn hóa Maya. Có ý kiến cho rằng nguồn gốc của văn hóa ngọc bích có thể liên quan đến ảnh hưởng và sự lan truyền văn hóa của nền văn minh Âm Thương từ Trung Quốc đến Tân Thế giới.

Quá trình hình thành ngọc bích Nephrite

Ngọc bích Nephrite thường được tìm thấy trong các thành tạo đá biến chất, chẳng hạn như serpentinite, amphibolite hoặc greenschist. Nephrite là sản phẩm của sự biến đổi các khoáng chất khác, đặc biệt là actinolite và tremolite, là một phần của nhóm khoáng chất amphibole. Các khoáng chất này trải qua quá trình kết tinh lại và biến đổi trong điều kiện áp suất và nhiệt độ cao, dẫn đến sự hình thành nephrite.
Nephrite có thành phần hóa học thay đổi nhiều hơn Jadeite, thường được biểu thị bằng công thức Ca2(Mg,Fe)5Si8O22(OH)2. Công thức này chỉ ra rằng Nephrite chứa canxi (Ca), magie (Mg), sắt (Fe), silic (Si), oxy (O) và nhóm hydroxyl (OH). Trong Nephrite có chứa khoáng chất silicat, nghĩa là bao gồm silicon và oxy. Chúng có cấu trúc nguyên tử dày đặc và chặt chẽ, góp phần tạo nên độ bền và khả năng chống vỡ cho ngọc bích. Nephrite có cấu trúc dạng sợi hoặc dạng nỉ, bao gồm các sợi khoáng đan xen. Các sợi này chủ yếu bao gồm canxi, magiê và silic. Bản chất dạng sợi của nephrite mang lại cho nó độ dai và độ bền đặc trưng. Đặc biệt khi khoáng chất amphibole có tinh thể dạng sợi dài và cấu trúc dạng sợi, đan xen này mang lại cho nephrite độ bền vốn có và cho phép nó có độ bóng cao. Thành phần hóa học và cấu trúc tinh thể cụ thể của nephrite góp phần tạo nên các đặc tính vật lý độc đáo của chúng, chẳng hạn như màu sắc, độ trong mờ, độ cứng và độ dai, khiến chúng được đánh giá cao trong đồ trang sức và đồ trang trí.
Mặc dù các mỏ khoáng sản trên thế giới có chung môi trường địa chất nhưng quá trình hình thành của chúng lại khác nhau. Serpentinit là một phần của vành đai ophiolit, có nguồn gốc từ đại dương và di chuyển về phía đất liền khi xảy ra quá trình hút chìm. Sự hút chìm diễn ra khi lục địa và đại dương va chạm, do đó hầu hết các vành đai ophiolit hình thành dọc theo các khu vực có đường nối cũ và hiện tại.
Các trầm tích nephrite jade xanh chủ yếu nằm trong vành đai serpentinit, hình thành dọc theo các đới hút chìm cũ hoặc vẫn còn hoạt động. Ba mỏ có tầm quan trọng về mặt thương mại ở Trung Quốc, British Columbia và Siberia có đặc điểm địa chất tương đồng. Nephrite jade xanh có giá trị kinh tế cao nhất được tìm thấy ở phía tây bắc Trung Quốc, British Columbia và Siberia, đây là những khu vực cung cấp lượng sản phẩm lớn cho thị trường Trung Quốc.

Ngọc bích Nephrite khu vực Tân Cương, Trung Quốc

Có một điều đặc biệt ở đây đó là Trung Quốc là một nơi đam mê ngọc nhưng  lại không có mỏ ngọc Cẩm Thạch nào. Những cổ vật như bình ngọc, tượng Phật, ngọc bội làm từ ngọc ở Trung Quốc đều là ngọc bích Nephrite. Đến tận thế kỷ 18, Myanmar mới xuất khẩu Jadeite sang Trung Quốc, từ đó Cẩm Thạch cũng soán ngôi Ngọc Bích.

Nằm ở phía tây bắc Trung Quốc (Khu tự trị Tân Cương), Hòa Điền (Hotan) còn được coi là "thủ đô ngọc bích" của Trung Quốc, nơi ngọc phân bố chủ yếu ở sườn bắc núi Côn Luân - Tân Cương. Khu vực này nổi tiếng với loại ngọc trắng “mỡ cừu” chất lượng hàng đầu. Chất lượng ngọc Hòa Điền được xác định bởi độ trắng, hình dạng và kết cấu. 
Thứ nhất, “Ngọc bích Hetian” - Ngọc Bích Hòa Điền được biết đến là "Cổ Ngọc" trong truyền thống văn hóa Trung Hoa, được ghi vào sử sách từ thời Tây Hán và đây cũng là loại ngọc cấp thượng đẳng nhất trong các loại Bạch Ngọc. Ngọc Hòa Điền mang vẻ đẹp sang trọng, quý phái mà không phải loại đá quý nào cũng có được. Loại ngọc này được sản xuất chủ yếu ở Dãy núi Kunlun (Dãy Karakoram) và Núi Altyn (Altai), hầu hết ngọc Hetian từ hai vùng này đều có màu trắng, trắng xanh hoặc xanh nhạt. Nếu nephrite jade có màu xanh lục rất rõ ràng thì nó được gọi là “nephrite xanh” (tiếng Trung gọi là “jasper”). Còn ngọc xanh được sản xuất ở Thung lũng Manas (nằm ở phía tây bắc Tân Cương) ở phía nam lưu vực Junggar, trầm tích chính nằm ở sườn phía bắc của dãy núi Thiên Sơn thì được gọi là “Manas Jasper”.
So với Nephrite jade từ các vùng khác trong và ngoài nước, màu sắc của ngọc Hetian có nhiều tông màu hơn và tạo thành chuỗi riêng.
Thứ hai, ngọc Hetian có loại ngọc trắng hiếm có trên thế giới, đó là ngọc trắng có màu như mỡ cừu, là sự độc đáo của ngọc Hetian và cực kỳ có giá trị.
Thứ ba, ngọc Hetian có màu da. Trên thế giới có rất nhiều ngọc có màu da, nhưng màu da không đẹp bằng ngọc Hetian. Trung Quốc cổ đại rất coi trọng màu sắc của ngọc Hetian, nó không chỉ là biểu tượng quan trọng của chất lượng mà còn chứa đựng những ý nghĩa tư tưởng nhất định. Người xưa có thể đã chịu ảnh hưởng của thuyết Ngũ hành nên gán ngọc ngũ sắc cho bốn phương và trung tâm, phía đông màu xanh, phía nam màu đỏ, phía tây màu trắng, phía bắc màu đen và trung tâm màu vàng. Thời xưa, năm màu xanh, đỏ, vàng, trắng, đen là màu chủ đạo, các màu còn lại là màu phụ nên ngọc cũng được chia thành năm màu. Nhưng ngọc Hetian thực chất chỉ có 4 màu chính là trắng, xanh lá cây, mực và vàng.
Trong các màu sắc của ngọc Hetian, ngọc trắng mỡ cừu là tốt nhất và cao cấp nhất. Theo phân loại truyền thống, ngọc Hetian được chia thành 8 loại dựa trên màu sắc và hoa văn: ngọc trắng, ngọc trắng xanh, “sapphire” Trung Quốc, jasper, topaz, ngọc đen, ngọc đường và ngọc hoa.

Ngọc trắng

Đề cập đến nephrite jade trắng, có nhiều tên gọi khác nhau cho các mức độ màu sắc khác nhau, chẳng hạn như trắng sữa, trắng lê, trắng bông tuyết, trắng ngà, trắng xương cá, trắng gạo nâu, trắng xương gà... loại tốt nhất là loại có màu trắng mỡ cừu (trông giống như mỡ cô đặc), đặc trưng của ngọc Hetian. Số lượng ngọc trắng béo cừu rất ít và giá trị của nó rất cao. Ngọc trắng Hetian phần lớn là ngọc trắng thông thường, nhưng ngọc trắng phải trắng và ẩm, nếu trắng nhưng không ẩm thì đó là ngọc trắng chết và không phải ngọc chất lượng cao.

Ngọc xanh và trắng

Dùng để chỉ loại ngọc mềm nằm giữa ngọc trắng và ngọc bích xanh, trông giống trắng nhưng không trắng, trông giống xanh nhưng không xanh. Màu sắc mềm mại và đồng đều, lấy màu trắng làm chủ đạo, đôi khi có một chút màu đường hoặc đen.

“Sapphire” của Trung Quốc

Loại ngọc này mềm, có màu từ xanh ngọc nhạt đến xanh xám. Màu sắc của ngọc rất mềm mại, đều, đôi khi có một chút màu đường hoặc đen. Ngọc có kết cấu dày đặc và tinh tế. Nếu ngọc lục lam chứa các tinh thể pyrit phân bố thành hình ngôi sao, nó thường được gọi là "Venus Sapphire" thì “Sapphire” truyền thống của Trung Quốc có màu xanh đậm với xám hoặc xanh lục với đen. Đặc biệt, loại này có phổ màu từ xanh lục lam nhạt đến xanh lục lam đậm, có thể xuất hiện ánh xanh lục nhấp nháy. “Sapphire” Trung Quốc có độ cứng cao nhất trong các loại ngọc mềm, tuy nhiên màu sắc không đẹp bằng ngọc trắng và giá trị cũng thấp hơn

Jasper

Ngọc Jasper là loại ngọc mềm có màu xanh lá cây đặc trưng, với màu sắc thường mềm mại và đồng đều. Tông màu cơ bản là xanh lá cây, trong đó phổ biến các sắc độ như xanh lá cây, xanh xám, xanh vàng và xanh đậm. Một số viên Jasper có cấu trúc dạng sợi, khi được chế tác thành hình khum có thể tạo ra hiệu ứng mắt mèo độc đáo. Sắc xanh của Jasper chủ yếu do các ion sắt gây ra.
Thỉnh thoảng ngọc Jasper có đốm đen, với các sắc độ xanh nổi bật như xanh vẹt, xanh hoa thông và xanh bạch quả. Trong lịch sử, ở Trung Quốc cổ đại, những viên Jasper trong suốt và mịn màng, xanh đậm như màu rau bina được coi là cao cấp nhất, trong khi các loại có sắc xanh pha xám thường được xếp hạng thấp hơn.

Topaz

Dùng để chỉ ngọc mềm từ màu vàng nhạt đến vàng đậm, vàng nhạt và vàng lục. Màu sắc mềm mại và đều, có chút xanh nhẹ. Các sắc thái màu vàng khác nhau của nó là do oxit sắt thấm vào các khoảng trống của ngọc trắng. Topaz rất hiếm, màu sắc thường nhạt, màu đậm cũng hiếm, loại có màu vàng như lê hấp là tốt nhất, giá trị của loại chất lượng cao thậm chí không thấp hơn ngọc mỡ cừu, chủ yếu được sản xuất ở Huyện Nhược Cường, Tân Cương.

Ngọc đen

Nephrite jade, có màu từ đen đậm đến đen nhạt, đôi khi có màu “xanh đen”, thường đi kèm với sapphire và độ bóng của nó đậm hơn các loại ngọc khác. Sự phân bố màu đen có thể là dạng chấm, dạng đám mây hoặc đen tuyền, tên của nó bao gồm: mây đen, mực nhạt, râu chồn vàng, thái dương phụ nữ, đen tuyền, ... Màu đen của toàn bộ vật liệu ngọc có thể đậm hoặc nhạt, ngay cả một miếng ngọc chủ yếu là màu đen cũng sẽ được trộn lẫn với màu lục lam hoặc thậm chí là màu trắng, màu đen của mực ngọc là do than chì vi vảy tạo ra.Nếu màu đen chứa pyrit phân bố trong các điểm sao thì nó thường được gọi là “Ngọc đen sao Kim”.

Ngọc đường

Dùng để chỉ nephrite jade có màu đường nâu. Màu sắc không đồng đều, chủ yếu là màu vàng, nâu, đỏ và nâu. Nếu màu đường chiếm hơn 80% sản phẩm thì có thể gọi trực tiếp là ngọc đường; nếu màu đường chiếm từ 30% đến 80% sản phẩm thì có thể gọi là ngọc đường, ngọc trắng đường, hoặc ngọc trắng đường xanh, ngọc bích đường..., nếu phần màu đường chiếm ít hơn 30% trong sản phẩm thì từ “đường” sẽ không được phản ánh trong tên. Màu đường là màu thứ cấp, có thể mỏng hoặc dày, phân bố chủ yếu dọc theo các vết nứt, có màu gần giống đường nâu do bị tiêu tán oxit sắt.

Hoa ngọc

Ngọc Hetian màu hoa ngọc là loại ngọc quý có màu sắc phong phú,và được phân bố hợp lý để tạo thành một “mô hình” có hình dạng nhất định, chẳng hạn như “ngọc da hổ”, “ngọc bích”.
Loại ngọc này có ánh bóng nhờn, mang lại cảm giác ấm áp, mềm mại, và ẩm mượt khi chạm vào. Điều này được người xưa miêu tả là “ẩm và bóng” - giống như đặc điểm của ngọc mỡ cừu, nổi tiếng nhờ độ ẩm như mỡ cừu.
Ngọc Hetian có độ trong suốt vừa phải, với nước ngọc tốt và độ trong suốt nhẹ, giúp các sản phẩm chạm khắc thêm phần sinh động, tươi tắn. Loại ngọc này cũng có rất ít tạp chất, thậm chí một số viên hoàn mỹ và đồng nhất từ trong ra ngoài. Người xưa mô tả đây là đặc điểm “tục không che lấp được cái tốt, cái thiện không che được khuyết điểm”, thể hiện sự thuần khiết của ngọc.
Đặc biệt, ngọc Hetian có độ dẻo dai nổi bật nhờ cấu trúc giống như nỉ độc đáo, giúp nó không dễ gãy, có khả năng chống mài mòn cao, rất thích hợp cho việc tạo hình nghệ thuật và chạm khắc tinh xảo. Độ dẻo dai tuyệt vời này là yếu tố quan trọng giúp ngọc Hetian được xếp vào loại ngọc quý nhất trong các loại ngọc

Ngọc bích Nephrite khu vực Siberia, Nga

Mặc dù nephrite jade xanh của Nga mới chỉ có mặt trên thị trường Trung Quốc khoảng 10 đến 15 năm nhưng nó đã đạt được danh tiếng cao nhờ màu sắc tươi sáng và độ trong suốt tốt. Ngọc bích phân bố nhiều nơi nhưng ở Nga chất lượng ngọc bích vượt trội hơn hẳn, màu sắc đẹp chuẩn, ít tạp chất và cấu trúc ngọc dai nhất trong các loại ngọc bích thông thường. Bởi vậy khi chế tác các sản phẩm hay tác phẩm cần chất ngọc cứng và dai thì ngọc Nga luôn đáp ứng đủ, không những thế kết cấu ngọc rất mịn. Cả nephrite trắng và xanh đều được khai thác ở Nga, một số viên ngọc trắng có chất lượng tương đương với loại ngọc “mỡ cừu” được săn lùng nhiều nhất và được bán với giá cao ở Trung Quốc. Nephrite jade xanh dễ thu được hơn loại trắng.
Các mỏ nephrite jade ở Siberia nằm ở những vùng cực kỳ xa xôi của Nga, ở phía đông dãy núi Sayan và vùng sông Jeddah ở phía tây nam hồ Baikal và trên vùng đồi Palama ở phía đông bắc hồ Baikal. Về mặt địa lý và địa chất, dãy Sayan có liên quan đến dãy núi Altai, trải dài về phía tây bắc Trung Quốc, phía bắc Mông Cổ và tây nam nước Nga. Nhiều người tin rằng mối liên hệ này là lý do tại sao ngọc bích nephrite jade từ Trung Quốc và Nga có chất lượng tương tự nhau.
Các mỏ nephrite xanh mà người Trung Quốc quen thuộc hầu như đều tập trung ở dãy núi Sayan phía Đông. Từ năm 2005 đến nay, các đại lý nephrite Trung Quốc đã lấy phần lớn hàng tồn kho của họ từ các mỏ này. Nằm dọc theo rìa phía nam của craton Siberia, khu vực này có diện tích hơn 250 km vuông. Người Nga đã nhận ra và nghiên cứu cẩn thận hơn 50 đơn vị đá siêu mafic (Burtseva và cộng sự, 2015), hầu hết đều nằm trong khối núi Ospa-Kitoi và Khara-Nur.


Việc khai thác nephrite xanh Siberia cực kỳ khó khăn do sự kết hợp của điều kiện thời tiết khắc nghiệt và địa hình địa phương cực kỳ gồ ghề. Các địa điểm khai thác có thể được tiếp cận tốt nhất bằng trực thăng vào mùa hè hoặc bằng xe tải hạng nặng dọc theo các con sông đóng băng vào mùa đông. Các nhà thám hiểm cần phải bay đến Irkutsk, thành phố chuyển tiếp gần nhất, và bắt đầu từ đó. Phải mất ít nhất bốn đến năm ngày để đến được các địa điểm khai thác. Xe tải quân đội sáu bánh đã nghỉ hưu là phương tiện vận chuyển có sẵn và đáng tin cậy nhất.

Các mỏ nephrite jade xanh chính ở dãy núi Sayan phía đông và khu vực sông Jeddah
Nephrite jade xanh Siberia hiện chiếm lĩnh thị trường nephrite xanh từ trung cấp đến cao cấp của Trung Quốc, và đá British Columbia chiếm lĩnh thị trường cấp thấp. Mặc dù Tân Cương là khu vực sản xuất nephrite quan trọng nhất trong lịch sử nhưng điều này không xảy ra với nephrite xanh. Thị phần của nephrite xanh Tân Cương rất hạn chế và không thể cạnh tranh với các sản phẩm từ Siberia và British Columbia.
Ngọc bích Nga có nhiều màu sắc, bao gồm trắng, vàng, nâu, đỏ, xanh lá cây, xanh lá cây và trắng... và thường có nhiều màu sắc được phân bố trong cùng một mảnh nephrite. Từ mặt cắt ngang của nó, màu sắc thể hiện sự phân vùng rõ ràng, từ rìa đến trung tâm có các màu nâu, nâu, vàng, lục lam, trắng xanh và trắng, các hạt khoáng chất thay đổi từ dày đến mỏng từ mép sang trung tâm. Do ảnh hưởng của các chuyển động kiến ​​tạo, các oxit sắt thường bị phát tán dọc theo các vết nứt, tạo thành màu nâu, nâu đặc trưng…tương tự như ngọc đường ở Tân Cương.
Nghiên cứu cho thấy thành phần khoáng vật của nephrite jade Nga chủ yếu là tremolite, chiếm hơn 95%, các khoáng vật thứ cấp bao gồm dolomite, thạch anh, apatit, epidote , talc, magnetit vv. So với ngọc Hotan Tân Cương, thành phần khoáng chất của nó gần giống nhau, cấu trúc tương tự và loại nguồn gốc cũng giống nha
Trong số ba khu vực sản xuất chính, nephrite jade xanh Siberia chất lượng cao có kết cấu rất tinh tế và màu xanh tươi, được người tiêu dùng trẻ ưa chuộng. Bởi vì nephrite jade xanh hiện đại có xu hướng ít “đốm đen” hơn và phân bổ màu sắc đồng đều nên nó thường được tìm thấy trong các cuộc đấu giá và phần lớn được làm từ đá Siberia (theo đánh giá của Ao Yan).
Ấn tượng chung của người tiêu dùng là nephrite xanh Siberia thường có chất lượng cao hơn đá từ Tân Cương hoặc British Columbia.

Bộ mười tám vị La Hán (đoàn tùy tùng của Đức Phật) này được chạm khắc từ nephrite jade xanh Siberia. Sự phân bố màu sắc của nephrite xanh Siberia chất lượng tốt nhất có thể cực kỳ đồng đều, không nhìn thấy các đốm đen trên các hình này.
Ngọc Siberia tốt nhất đến từ mỏ Ospa. Nó có sự phân bố đồng đều về màu xanh lá cây, ít đốm đen hơn và kết cấu siêu mịn
Mảnh nephrite jade xanh này đến từ mỏ số 10 ở Siberia. Các đốm đen ở phần mỏng là crômit và các dải màu trắng là các tinh thể tremolite song song. Chén thánh này được làm theo phong cách chung của các sản phẩm Fabergé. Nephrite của nó đã được khai thác ở Siberia từ lâu. Vật liệu có chất lượng này rất khó tìm thấy ngày nay.


Ngọc bích Nephrite khu vực British Columbia, Canada

Nephrite Bắc Mỹ được tìm thấy ở vùng Cariboo của British Columbia có niên đại hơn 4.000 năm, nhưng nephrite xanh của vùng này không tìm được đường vào thị trường cho đến khi những người thợ mỏ Trung Quốc độc lập nhận ra nó trong cơn sốt vàng những năm 1850 ở California và khu vực Sông Fraser của British Columbia. Họ vận chuyển những tảng đá nephrite từ cả hai khu vực trở về Trung Quốc để chế biến. Một số vật liệu chất lượng hàng đầu đã được triều đình lấy và trở thành một phần trong bộ sưu tập của triều đình. Kể từ đó, nephrite xanh của British Columbia liên tục được nhập khẩu vào Trung Quốc.
Nephrite jade xanh từ British Columbia là vật liệu chạm khắc đá quý rất phổ biến ở Trung Quốc. Màn hình gập thu nhỏ này có các tấm nephrite màu xanh lá cây được đặt trong khung gỗ. Nó bắt chước một màn hình kích thước đầy đủ - là đồ nội thất truyền thống điển hình của Trung Quốc được đặt ở những khu vực cụ thể trong phòng để bảo vệ sự riêng tư.
Nephrite xanh từ British Columbia thường có nhiều "chấm đen" và "đường viền nước" hơn vật liệu Siberia, mặc dù hàng hóa chất lượng cao của nó có thể cạnh tranh với hàng hóa chất lượng cao của Siberia. Hầu hết sản phẩm của British Columbia được định giá để đáp ứng thị trường trung cấp đến thấp cấp.
Màu xanh đậm hơn một chút của nephrite jade British Columbia thực chất nằm trong một loại màu được ngành công nghiệp gọi là “xanh rau bina”. Đây là màu xám hoặc xanh mòng két nhạt hơn một chút được người tiêu dùng lớn tuổi ưa chuộng và những người thích vẻ ngoài bảo thủ hơn. Màu xanh của rau bina thường được coi là màu nephrite xanh phổ biến nhất.
Loại nephrite xanh nổi tiếng nhất của British Columbia là Polar Jade từ Mỏ Polar. Nephrite xanh của mỏ có màu xanh lá cây sáng hơn các vật liệu khác của British Columbia. Tên tiếng Trung của nó có nghĩa là "ngọc bích từ vòng Bắc Cực", đã trở thành một cái tên thành công cho mục đích quảng cáo. Tập đoàn Jade West, đơn vị sở hữu và điều hành mỏ, cho biết sản lượng của mỏ đã trở nên rất hạn chế.

Các hạt trong chuỗi là từ Mỏ Polar ở British Columbia. Polar Jade được coi là sản lượng nephrite xanh tốt nhất của British Columbia. Hiện tại không có hoạt động khai thác nào diễn ra ở đó, khiến cho các mặt hàng có sẵn thậm chí còn có giá trị hơn. Phần thô là từ Wyoming, Hoa Kỳ, nơi khai thác cũng đã ngừng. Phần thô này đại diện cho vật liệu chất lượng tốt nhất của nó. Được cung cấp bởi Jade West Group.

Trong khi nhu cầu từ Trung Quốc đã thay đổi qua nhiều năm, sản lượng từ Canada không thay đổi đáng kể. Canada xuất khẩu khoảng 400 tấn nephrite mỗi năm, một lượng tương đối nhỏ khi so sánh với lượng xuất khẩu ngọc bích của Myanmar, ở mức 20.000 tấn mỗi năm.
Một lượng tương đối nhỏ được chuyển đến Đức và Bắc Mỹ. Nephrite được chuyển đến Trung Quốc chủ yếu là cho thị trường nội địa Trung Quốc. Thái Lan, Việt Nam, Nepal và một số quốc gia Đông Nam Á khác mua nephrite để chạm khắc tôn giáo hình ảnh Đức Phật.
Đá ngọc bích Canada có màu sắc đa dạng, từ xanh lá cây đặc trưng đến trắng, vàng, cam, đỏ, tím, mỗi màu mang ý nghĩa phong thủy riêng. Với độ cứng cao từ 6.0 đến 7.0 trên thang Mohs, loại đá này bền bỉ theo thời gian và ít bị trầy xước. Về độ trong, đá ngọc bích Canada có thể trong suốt hoặc đục, trong đó loại trong suốt có giá trị cao hơn. Bên cạnh đó, các vân đá độc đáo như vân trắng, vân mây và vân mạng nhện cũng tạo nên vẻ đẹp riêng, góp phần tăng giá trị của viên đá.

Ngọc Canada chủ yếu bao gồm các khoáng chất tremolite và Actinolite, thành phần hóa học và thành phần khoáng chất tương tự như ngọc bích thông thường, các tính chất vật lý như độ cứng, chỉ số khúc xạ và độ bền. Có đặc tính cấu trúc đan xen sợi.
Ngọc bích Canada ít dầu hơn, kết cấu mịn, màu sắc tương đối đồng đều, màu xanh lục nhạt hơn và màu xám. Chứa nhiều crom ở dạng chấm đen, màu xanh rau bina, độ tinh khiết cao hiếm có và thường chứa nhiều tạp chất chấm đen.


Canada có trữ lượng ngọc đã được chứng minh lớn nhất trên thế giới. Ba mỏ ngọc bích lớn của nước này được phát hiện vào đầu những năm 1970, chủ yếu ở British Columbia và Lãnh thổ Yukon. Những khám phá sớm nhất là những viên sỏi còn sót lại ở lòng sông và thung lũng trong Kỷ Băng hà, chúng được xác định là nephrite. Sau đó, nhiều mạch ngọc bích được phát hiện ở các ngọn núi xung quanh và sản lượng trung bình đạt 200 đến 300 tấn mỗi năm từ năm 1970 đến năm 2007. Do hàm lượng quặng sắt cao ở những ngọn núi xung quanh nơi tìm thấy ngọc bích, ngọc Canada luôn có màu xanh tự nhiên. Ngọc xanh Canada và ngọc Trung Quốc đều là ngọc mềm, còn ngọc trắng vẫn chưa được phát hiện ở Canada.

Ngọc bích Nephrite khu vực Newzeland

Maori là một tộc người ở Newzeland tôn thờ ngọc bích ( hay ngọc bích Maori, như cách họ thường gọi ở Newzeland), một nghìn năm trước người Maori đã di cư đến vùng đất mới một cách tình cờ. Trên bờ biển cũng như trong lòng suối, dọc theo một phần lớn bờ biển phía tây của hòn đảo, người Maori tìm thấy ngọc bích nephrite - một kho báu lớn và họ bắt đầu sử dụng kho báu này từ thế kỷ 12. Người Maori tin rằng sức sống của núi, nước và rừng của một nơi có thể ngưng tụ trong đá, những viên đá như vậy được gọi là đá sự sống, được người Maori coi là vị thánh bảo trợ của lãnh thổ bộ lạc. Ngọc New Zealand luôn đứng ở vị trí nổi bật tại lối vào của bộ lạc Đá. Cựu giám đốc Russell Beck của Viện bảo tàng Southland và Art Gallery từng nói rằng : “một phần cốt lõi của cách sống của người Maori”. Người dân nơi đây thường sử dụng ngọc bích làm vũ khí bởi tính bền bỉ của nó, tuy nhiên nó vẫn được sử dụng để chế tác trang sức. Trong văn hóa Maori, họ tin rằng đeo mặt dây chuyền có đính một mảnh ngọc bích đồng nghĩa với mang thêm một mảnh “mana” trên người, qua đó có thể tăng cường sức mạnh cho nhau bằng cách chuyền cho nhau mặt dây chuyền của mình. 
Người New Zealand không gọi là ngọc bích mà thường gọi nó là “đá xanh” hoặc pounamu trong ngôn ngữ Maori của người Anori. Tông màu thường là xanh lá cây, xanh đậm, xanh đậm và đen, một số có màu xanh rau bina rất đẹp và độ trong suốt nhìn chung rất tốt. Ngọc New Zealand có đặc điểm là ít đốm đen hơn nhưng sản lượng ở mức trung bình. Ngọc New Zealand chủ yếu được chế tác thành nhiều loại đồ trang sức khác nhau bởi các nhà sản xuất địa phương.
Người Maori phân loại ngọc theo màu sắc, kiểu trang trí và độ trong suốt. Có nhiều tên địa phương khác nhau cho các loại ngọc khác nhau, nhưng có bốn tên phổ biến nhất: Inaka, Kahuranyi, Kawakawa và Tangjihuai. Mỗi loại trong số bốn loại này có bề ngoài rất khác nhau.

Inaka – trắng nhạt và bạc

Inaka được đặt theo tên một loài cá nước ngọt có nguồn gốc từ New Zealand, nó có màu trắng xám và thường có độ trong suốt nhất định, giống như cá Inaka con. Ngọc Inaka có màu trắng ngọc trai hoặc xanh xám và độ trong suốt của nó dao động từ mờ đến trong suốt. Màu sắc của nó phát triển thành màu xanh ô liu nhạt khi nó già đi và bị oxy hóa.

Kahurangi – trong xanh như bầu trời


Kahurangi là loại ngọc hiếm nhất, có độ trong suốt cao và thường có màu xanh lục sáng. Loại ngọc này lấy tên từ sự trong lành của bầu trời, với những dấu lông nhỏ tạo hiệu ứng giống như đám mây. Chi tiết ngọc Kahurangi với các dấu hiệu giống như bông tuyết. Từ “Kahurangi” còn tượng trưng cho sự cao quý và được dùng để chỉ đồ trang sức quý giá. Kahurangi được người Maori đặc biệt tôn trọng. Trong quá khứ, nó là loại ngọc được ưa chuộng dành cho các nghi lễ của các tù trưởng

Kava Kava – bóng xanh lốm đốm

Kava Kava là loại ngọc phổ biến nhất, có màu sắc từ xanh đậm đến xanh và các vết sẫm màu là một đặc trưng riêng của nó. Sở dĩ nó được đặt tên như vậy là vì nó có màu sắc giống với màu lá của một loại cây cùng tên có nguồn gốc từ New Zealand.
Tại đám tang, những người phụ nữ đau buồn đôi khi đội vòng hoa bằng những chiếc lá này. Có nhiều biến thể của giống Kawakawa, bao gồm một loại có màu xanh ô liu và một loại có các vết và sọc màu đỏ.
Vòng cổ ngọc bích là mặt hàng ngọc bích đặc biệt nhất ở New Zealand. Nó được người dân địa phương gọi là HEI TIKI. HEI có nghĩa là “treo” và TIKI có nghĩa là “con người”, vì vậy nó thường được gọi là “vòng cổ ngọc bích”.

HEI TIKI chứa đựng kiến ​​thức, triết học, lịch sử và đặc điểm dân tộc phản ánh truyền thống văn hóa độc đáo của người Maori và đại diện cho hình ảnh của New Zealand. Cả nam và nữ đều có thể đeo dây chuyền ngọc bích, tuy nhiên ngày nay chủ yếu chỉ có nữ giới đeo.
Chiếc vòng cổ ngọc bích mang ý nghĩa may mắn, giàu có và gìn giữ truyền thống. Đây không chỉ là món đồ trang sức độc đáo thể hiện cá tính mà còn là vật gia truyền của gia đình, chứa đựng giá trị tinh thần và khả năng kết nối tâm linh. Thiết kế của chiếc vòng chủ yếu thể hiện hình ảnh một người đàn ông đang nhảy múa một mình, hai tay chống hông, hai chân chụm, nhún nhảy từ bên này sang bên kia với biểu cảm sinh động. Hình ảnh này có thể lấy cảm hứng từ các tư thế nhảy múa của người Maori, sau đó được cách điệu thành biểu tượng nghệ thuật đơn giản và sống động. Chiếc vòng cổ ngọc bích từ đó đã trở thành biểu tượng văn hóa của người Maori và New Zealand.


Phân biệt Ngọc Bích Nephrite và Cẩm Thạch Jadeite

Những viên Ngọc từ ngày xưa đã được xem là loại đá quý cực kỳ cao sang, chỉ có những ai thuộc giới thượng lưu mới có thể sở hữu. Những viên Ngọc Thạch đã được ưa chuộng từ hơn 7000 năm trước, nhưng vì kỹ thuật và khoa học ở thời đó chưa phát triển, nên người ta có rất ít kiến thức về loại đá này, và họ chỉ sử dụng một cái tên chung là Jade. Đến năm 1863, nhà khoa học tên Alexis Damour mới tìm hiểu ra có hai loại Ngọc khác nhau là Nephrite (Ngọc Bích) và Jadeite (Cẩm Thạch). Nhìn vào bề ngoài thì chúng rất giống nhau, nhưng thực tế lại có cấu trúc hoàn toàn khác biệt, từ đó giá trị cũng không như nhau.
Nếu quan sát bằng mắt thường, bạn sẽ khó có thể phân biệt được Nephrite và Jadeite khác nhau ở điểm nào, bởi cả hai loại này đều có màu sắc tương tự nhau và chúng cũng là Ngọc Thạch. Tuy nhiên, khi để ý hơn về các chi tiết, bạn sẽ nhận thấy được có nhiều điểm khác biệt.
Ngọc Bích Nephrite được xem là loại Ngọc thường hơn, có cấu trúc khoa học là calcium magnesium iron silicate. Xét về độ cứng theo thang điểm Mohs thì loại Ngọc Bích nằm ở mức từ 6 - 6.5. Màu sắc của Nephrite khá nhạt, như trắng sữa, xanh xám, vàng, đỏ hoặc đen. Phần bề mặt bóng lì (matte), khi soi Nephrite qua ánh sáng thì khá mờ đục.
Cẩm Thạch Jadeite là loại đá quý hiếm, có cấu trúc khoa học là sodium aluminum silicate. Xét theo thang điểm Mohs thì Jadeite đạt từ 6.5 - 7, cứng hơn Ngọc Bích. Vẻ bề ngoài của Jadeite cũng bóng loáng hơn, màu sắc đậm hơn, khi có ánh sáng chiếu qua cũng rất đều màu và trong suốt. Cẩm Thạch cũng có nhiều màu tương tự như Ngọc Bích, ví dụ như xanh lá cây, tím, vàng, trắng trong và đen. Tuy nhiên nếu nói về loại Cẩm Thạch đắt đỏ nhất thì chúng lại mang màu xanh biếc, và người ta gọi nó là Ngọc Phỉ Thúy. Màu xanh biếc này tương tự với màu của Ngọc Lục Bảo.
Ngọc bích cũng được coi trọng vì nó gắn liền với các yếu tố quan trọng khác của nền văn hóa Trung Mỹ . Màu sắc của ngọc bích, có phạm vi từ xanh lam đến xanh lục đậm, có nghĩa là người Trung Mỹ liên kết nó với bầu trời, thảm thực vật (đặc biệt là chồi ngô non) và nước. Ngọc bích cũng đại diện cho những ý tưởng vô hình, đáng chú ý là khái niệm về sự sống, sự phong phú và tái sinh. Vì những liên tưởng này, ngọc bích được sử dụng trong các tác phẩm nghệ thuật đại diện cho những ý tưởng như vậy, hoặc toàn bộ tác phẩm được làm từ vật liệu quý hoặc khảm ngọc bích vào một vật liệu ít giá trị hơn. Việc sử dụng một miếng ngọc bích để đại diện cho trái tim của một bức tượng điêu khắc không phải là hiếm hoặc để chỉ ra rằng đại diện đó là một vị thần. Do gắn liền với sự sống và sự đổi mới, những miếng ngọc bích nhỏ đôi khi được đặt vào miệng người đã khuất trước khi chôn cất . Cuối cùng, có vẻ như những miếng ngọc bích đã qua chế tác được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và do đó thường được coi là vật gia truyền quý giá.

Chat